Câu lạc bộ Marseille - Les Phocéens

Câu lạc bộ Marseille hay Olympique de Marseille là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp tại thành phố Marseille, Pháp; được thành lập năm 1899 và phần lớn chơi ở các giải bóng đá hàng đầu nước Pháp suốt lịch sử tồn tại. Marseille đã chín lần vô địch giải hạng nhất Pháp Ligue 1, mười lần đoạt Cúp nước Pháp và là đội bóng Pháp duy nhất từng đoạt chức vô địch UEFA Champions League sau trận thắng AC Milan 1-0 bằng bàn thắng của hậu vệ Basile Boli ngày 26 tháng 5 năm 1993.

Soi kèo PSG vs Marseille, 19h00 ngày 24/09/2023 – Ligue 1 2023-2024

Nhận định bóng đá của các chuyên gia vaobo247 về trận đấu giữa hai đội PSG vs Marseille, 19h00 ngày 24/09/2023 – vòng 6 Ligue 1 2023/24 sẽ gửi đến...

Tiểu sử Marseille

Tên đầy đủ Câu lạc bộ bóng đá Olympique de Marseille
Biệt danh Les Phocéens
Tên ngắn gọn Marseille
Thành lập 1899
Sức chứa 67.394
Chủ sở hữu Jacques-Henri Eyraud
Chủ tịch Jacques-Henri Eyraud

Ao San Nha Marseille

Màu áo sân nhà

Olympique de Marseille (hay OM [lo’ɛmɘ] hoặc Marseille) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp ở thành phố Marseille, Pháp; được thành lập vào năm 1899 và đã chơi phần lớn trong các giải đấu bóng đá hàng đầu của Pháp trong suốt lịch sử của nó. Marseille đã 9 lần vô địch giải hạng nhất Pháp Ligue 1, 10 lần đăng quang Cúp quốc gia Pháp và là đội bóng Pháp duy nhất từng vô địch UEFA Champions League sau khi đánh bại AC Milan với tỷ số 1-0 nhờ bàn thắng của hậu vệ Basile Boli. Ngày 26 tháng 5 năm 1993.

Không lâu sau chiến thắng tại Champions League này, OM bị phát hiện dính vào một vụ dàn xếp tỷ số đầy tai tiếng với đội Valenciennes trong cùng mùa giải 1992-1993, kết quả là dù vô địch Pháp năm đó, Marseille vẫn bị tước HCĐ. Tiêu đề. đã xuống hạng nhì vào thời điểm phạt đền.

Từ mùa giải 1996-1997, Olympique Marseille trở lại thi đấu tại giải Hạng nhất Pháp Ligue 1. Phải đến mùa giải 2009-2010, Marseille mới vô địch quốc gia Pháp một lần nữa.

Sân vận động Vélodrome có sức chứa 67.000 người là sân nhà của đội OM, nằm ở phía nam Marseille. OM đã thi đấu tại đây từ năm 1937. Từ năm 1997, chủ sở hữu của đội là tỷ phú người Thụy Sĩ Robert Louis-Dreyfus.

Áo đấu Olympique de Marseille truyền thống có màu trắng với các mặt số phụ màu xanh lam. Khẩu hiệu tiếng Pháp Droit Au But của đội có nghĩa là “Đi thẳng tới khung thành” được in trên áo cùng với một ngôi sao tượng trưng cho danh hiệu Champions League đã giành được. Marseille cũng là đội bóng nổi tiếng nhất nước Pháp, với lượng fan trung thành rất hùng hậu thường lấp đầy các khán đài ở Stade Vélodrome, giúp OM đạt được số lượng khán giả trung bình lớn nhất nước Pháp. Chỉ số của mùa giải 2007-2008 là 52 600 khán giả / trận.

Lịch sử

Thời kì đầu

Theo lời kể của ông André Gascard, người từng chơi cho OM trước chiến tranh thế giới thứ nhất, sau đó trở thành huấn luyện viên, tham gia điều hành, và là người lưu trữ lịch sử của câu lạc bộ, Olympique de Marseille được công nhận là do ông René Dufaure sáng lập. de Montmirail vào năm 1892, nhưng mãi đến năm 1899, đội mới sử dụng tên hiện tại là Olympique de Marseille. Trước đây, đội có tên là Sporting Club, US Phocéenne, và sau đó là Football Club de Marseille. Các bài báo liên kết của câu lạc bộ đã được thông qua bởi đại hội thành viên vào tháng 8 năm 1899. Khẩu hiệu “Droit au but” (Droit au but) bắt nguồn từ bóng bầu dục vốn là môn thể thao chính của câu lạc bộ. câu lạc bộ tại thời điểm đó.

Theo André Gascard, sau khi gia nhập USFSA vào năm 1898, phải đến năm 1902 nhờ người Anh và người Đức, bóng đá mới bắt đầu được chơi tại l’OM. Do tiềm lực tài chính mạnh hơn và khả năng tổ chức tốt hơn các đội bóng khác ở Marseille như Sporting, Stade, Phocéenne,… nên OM đã trở thành đội bóng thống trị thành phố cảng lúc bấy giờ. Đội vào thời điểm đó chơi ở stade de l’Huveaune.

Năm 1904, đội giành chức vô địch Championnat du Littoral (Giải vô địch ven biển) lần đầu tiên sau khi đánh bại nhiều đội khác ở Marseille và khu vực lân cận, rồi lọt vào vòng chung kết của giải vô địch bóng đá Pháp. Vào thời điểm đó, từ “bóng đá” được sử dụng cho bóng bầu dục, và bóng đá được gọi là “hiệp hội”. Ở cấp độ quốc gia, đội đã thua liên tiếp 4 trận bán kết vào các năm 1904, 1905, 1906, 1908. Nhưng tiếp tục vô địch vùng Duyên hải thêm 5 năm liên tiếp. Mãi đến cuối những năm 1910, với sự trưởng thành của sân Stade Helvétique de Marseille, OM mới ngừng làm mưa làm gió ở miền Nam nước Pháp. Sau đó, Stade Helvétique đã làm được điều mà Olympique de Marseille không làm được là giành 3 chức vô địch bóng đá Pháp do USFSA tổ chức trước khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ.

Thập niên 1920

Từ những năm 1920, l’OM bắt đầu trở thành một đội bóng lớn ở Pháp. Marino Dallaporta trở thành chủ tịch câu lạc bộ vào năm 1921 và mang về Marseille một số ngôi sao lớn. Như mùa giải 1923-1924, hai cầu thủ Pháp Édouard Crut và Jean Boyer được chiêu mộ từ Paris.

Olympique de Marseille ngay lập tức có được danh hiệu quốc gia đầu tiên khi giành được 3 chiếc Cúp Pháp liên tiếp vào các năm 1924, 1926 và 1927, trong đó chiếc cúp năm 1924 là danh hiệu quan trọng đầu tiên mà đội giành được. sau khi đánh bại đối thủ FC Sète, đội bóng thống trị bóng đá Pháp vào thời điểm đó, trong trận chung kết. Năm 1929, OM vô địch giải bóng đá nghiệp dư của Pháp, tiền thân của Ligue 1. Thời gian này nhiều cầu thủ của đội tuyển Pháp đang thi đấu tại Marseille như Jules Dewaquez, Jean Boyer, Joseph Alcazar.

Vì những thành tích đó, OM là một trong hai mươi đội được chọn tham dự giải vô địch bóng đá chuyên nghiệp đầu tiên của Pháp được tổ chức vào năm 1932. Đội bắt đầu hoạt động theo quy chế chuyên nghiệp.

Kỷ nguyên chuyên nghiệp

Giải vô địch quốc gia chuyên nghiệp đầu tiên của Pháp được tổ chức vào năm 1932-1933 được chia thành hai nhóm. OM đứng thứ hai trong bảng của họ sau nhà vô địch của giải đấu, Olympique lillois, mặc dù Marseille đã đánh bại đội bóng miền bắc nước Pháp với tỷ số 7 – 0 trong trận mở màn của giải đấu.

Mùa giải tiếp theo (1933-1934). Đội để thua cú đúp đầu tiên trong lịch sử sau khi giành ngôi á quân ở Cúp quốc gia và Giải vô địch quốc gia sau FC Sète. Đáng tiếc nhất là tại giải vô địch quốc gia năm đó, khi Marseille còn 3 trận trong khi Sète đá hết trận và chỉ hơn OM đúng 1 điểm và thua rất nặng về hiệu số bàn thắng bại. OM chỉ cần hòa 1 trong 3 trận cuối là lên ngôi vô địch, tiếc rằng đội bóng thành phố cảng đã để thua cả 3 trận đó và ngậm ngùi về nhì.

Năm 1937, Marseille lần đầu tiên vô địch giải đấu chuyên nghiệp Pháp nhờ hiệu số bàn thắng bại là +30 so với đội xếp thứ hai là FC Sochaux-Montbéliard với hiệu số +17 (hiệu số bàn thắng bại là 1,76 so với 1,33). Hai danh hiệu khác mà OM giành được trong giai đoạn này là hai cúp bóng đá Pháp vào các năm 1935 và 1938. Đội cũng giành được ngôi á quân quốc gia vào các năm 1938 và 1939.

Thập niên 1940

Năm 1938, Larbi Ben Barek ký hợp đồng với l’OM và trở thành “viên ngọc đen” của đội, nhưng Thế chiến II đã kết thúc sự nghiệp của ông. Mùa giải 1942-1943 chứng kiến ​​nhiều kỷ lục của đội: 100 bàn sau 30 trận; thắng Avignon 20-2 trong đó riêng Aznar ghi 9 bàn (trong đó có 8 bàn đầu giúp OM dẫn trước 8-0); Aznar ghi tổng cộng 56 bàn sau 38 trận ở cả giải vô địch quốc gia và cúp quốc gia.

Năm 1948 OM giành chức vô địch Pháp nhờ trận hòa với Sochaux và hai trận thắng quan trọng cuối mùa tại Stade Vélodrome trước Roubaix (6-0) và Metz (6-3) với sự trở lại của Aznar và Robin vào mùa xuân.

Năm 1952, đội đã suýt xuống hạng, nhưng 31 bàn thắng của Gunnar Andersson đã giúp đội thoát hiểm. Năm 1953, Andersson lập kỷ lục ghi 35 bàn trong một mùa giải, và OM thua OGC Nice 1-2 trong trận chung kết Cúp quốc gia Pháp năm 1954. OM đã thi đấu rất khó khăn trong giai đoạn này và lần đầu tiên rơi xuống vị trí thứ hai vào năm 1959. Ngoại trừ mùa giải 1962-1963 thi đấu ở vị trí thứ nhất, từ năm 1959 đến năm 1965 OM thi đấu ở vị trí thứ hai. Năm 1965, Marcel Leclerc trở thành chủ tịch câu lạc bộ.

Kỷ nguyên của Marcel Leclerc và sự khủng hoảng

Thời kỳ Marcel Leclerc làm chủ tịch từ năm 1965 đến năm 1972 là kỷ nguyên đầu tiên OM thống trị giải vô địch Pháp. Tham vọng của ông đã giúp OM trở lại Ligue 1 năm 1965 và sau đó vô địch cúp bóng đá Pháp năm 1969. Mùa giải 1970-1971, Roger Magnusson kiến ​​tạo cho tiền đạo Josip Skoblar ghi 44 bàn tại Ligue 1 giúp OM lên ngôi vô địch, và Skoblar vô địch Chiếc giày vàng châu Âu. Mùa giải 1971-1972, sự xuất hiện của hai danh thủ Georges Carnus và Bernard Bosquier từ AS Saint-Etienne đã giúp OM giành cú đúp danh hiệu Ligue 1 và Cúp quốc gia Pháp.

Nhưng thành công không kéo dài được lâu khi vào ngày 19 tháng 7 năm 1972, Marcel Leclerc buộc phải rời đội. Vị chủ tịch cứng rắn này dọa rút OM khỏi Ligue 1 vì liên đoàn không chấp nhận đội bóng có 3 cầu thủ ngoại, trong khi ông muốn đưa về ngôi sao người Hungary Zoltán Varga, đội mà OM đã có 2 cầu thủ ngoại. theo quy định của thời đại. Đột nhiên, OM thay vì ủng hộ anh ta đã sa thải anh ta, bắt đầu cuộc khủng hoảng của đội với chỉ một Cúp quốc gia Pháp năm 1976 và sau đó bị rớt xuống vị trí thứ hai. Marseille đã chơi ở giải hạng hai trong tám năm với một đội hình đầy những cầu thủ trẻ (chẳng hạn như Éric Di Meco), người sau đó đã giúp đội trở lại vị trí đầu tiên vào năm 1984.

Kỷ nguyên của Bernard Tapie và vụ bán độ OM/Valenciennes

Ngày 12/4/1986, được sự ủng hộ của thị trưởng Marseille Gaston Defferre, ông Bernard Tapie trở thành chủ tịch của đội bóng, bắt đầu thời kỳ tạo ra đội bóng mạnh nhất trong lịch sử bóng đá Pháp. Hai bản hợp đồng chất lượng đầu tiên mà ông mang về cho OM là Karl-Heinz Forster và Alain Giresse sau World Cup 1986. Trong những năm tiếp theo, anh ký một loạt hợp đồng với nhiều cầu thủ nổi tiếng như Jean-Pierre Papin. , Chris Waddle, Klaus Allofs, Enzo Francescoli, Abedi Pelé, Didier Deschamps, Basile Boli, Marcel Desailly, Rudi Völler, Eric Cantona, cùng nhiều huấn luyện viên nổi tiếng như Franz Beckenbauer, Gérard Gili, Raymond Goethals với tham vọng mang về nhiều thành tích cho đội. Từ năm 1989 đến năm 1992, OM đã vô địch Ligue 1 bốn lần liên tiếp và một Cúp quốc gia Pháp. Đỉnh cao của OM trong giai đoạn này là chức vô địch Champions League với bàn thắng của hậu vệ Basile Boli vào lưới AC Milan trong trận chung kết vào ngày 26 tháng 5 năm 1993 tại sân vận động Olympic ở Munich, Đức. Đây cũng là chức vô địch Champions League duy nhất của bóng đá Pháp tính đến thời điểm hiện tại, đồng thời đưa Didier Deschamps trở thành đội trưởng trẻ nhất và Fabien Barthez là thủ môn trẻ nhất từng giành được danh hiệu này.

Thành công ngoài mong đợi này là khởi đầu cho một thập kỷ sa sút của đội bóng khi Chủ tịch Tapie bị phát hiện là người dàn xếp trận đấu tai tiếng nhất trong lịch sử bóng đá Pháp, trận OM / VA. Anh ta đã hối lộ các cầu thủ Valenciennes (VA) trước trận đấu OM-VA mùa giải 1992-1993 để đảm bảo Marseille giành chiến thắng trong trận đấu và không ai bị thương trước trận chung kết Champions League với AC Milan diễn ra sau đó. Kết quả là OM bị tước chức vô địch Ligue 1 mùa giải 1992-1993, không được tham dự cúp C1 và cúp Liên lục địa mùa sau, đồng thời bị xuống hạng 2 Pháp Ligue 2.

Con đường trở lại vinh quang?

Marseille trở lại vị trí thứ nhất vào năm 1996 nhờ sự hậu thuẫn của ông chủ mới Robert Louis-Dreyfus, người cũng là chủ sở hữu của Adidas. Ông chọn Rolland Courbis làm huấn luyện viên, ký hợp đồng với các cầu thủ Fabrizio Ravanelli, Laurent Blanc, Andreas Köpke để cuối mùa giải 1996-1997 OM đứng thứ 11. Mùa giải 1998-1999 OM đã kỷ niệm 100 năm thành lập đội. gồm những ngôi sao như Robert Pirès, Florian Maurice, Christophe Dugarry, William Gallas và xếp sau Girondins Bordeaux ở Ligue 1. Cũng ở mùa giải này, đội đã lọt vào chung kết UEFA Cup và để thua 0-3 trước Parma. Tháng 11/1999, Courbis phải rời đội do khởi đầu mùa giải mới đầy thất vọng.

Năm 2004 OM một lần nữa lọt vào trận chung kết UEFA Cup, sau khi đánh bại Dnipro Dnipropetrovsk, Inter Milan, Liverpool và Newcastle United một cách ấn tượng, và sau đó để thua Valencia, đội vừa thắng Tây Ban Nha, với tỷ số 0-2. Người hâm mộ OM phải tiếp tục chờ đợi một chức vô địch quan trọng từ năm 1993 đến nay.

Tháng 1 năm 2007, doanh nhân người Canada Jack Kachkar đàm phán với Dreyfus để mua lại OM nhưng do thương lượng quá lâu nên ngày 22 tháng 3 ông Dreyfus quyết định không bán đội.

Vào tháng 5 năm 2007 OM lọt vào trận chung kết Cúp quốc gia Pháp gặp FC Sochaux-Montbéliard, và lại để thua trên chấm phạt đền sau khi hòa 2-2 trong thời gian thi đấu chính thức. Đội bóng kết thúc mùa giải 2006-2007 ở vị trí thứ hai sau Lyon, đủ điều kiện tham dự Champions League mùa sau. Trước đó đội đã thua PSG 1-2 trong trận chung kết cúp quốc gia năm 2006.

Tại Champions League, với chiến thắng bất ngờ 1-0 trên sân Anfield của Liverpool năm 2007 bằng bàn thắng đẹp mắt của Mathieu Valbuena, OM là đội bóng Pháp đầu tiên giành chiến thắng trên sân nhà của Liverpool. Nhưng đội đã thua Liverpool 0-4 tại Vélodrome, theo đó Liverpool là đội bóng Anh đầu tiên thắng trận tại đây.

Vào đầu tháng 5 năm 2009 khi OM đang dẫn dắt Ligue 1, huấn luyện viên Eric Gerets thông báo rằng ông sẽ ra đi vào cuối mùa giải, và điều này đã gây ra một số xáo trộn trong đội. Ngay sau đó, BLĐ Marseille thông báo Didier Deschamps, cựu cầu thủ OM, sẽ dẫn dắt đội từ mùa giải 2009-2010.

Ngay mùa giải đầu tiên dẫn dắt Marseille, Deschamps đã dẫn dắt Marseille đến chức vô địch Pháp lần thứ 9 trong lịch sử sau 18 năm chờ đợi. Cùng mùa giải 2009-2010, Marseille cũng lần đầu tiên vô địch Cúp Liên đoàn.

Sau khi ông chủ Robert Louis-Dreyfus qua đời, Marseille được chuyển giao cho con gái ông Robert Louis-Dreyfus. Mùa giải 2010 – 2011, đội lọt vào vòng 2 Champions League. Cuối mùa, Marseille bảo vệ thành công Cúp Liên đoàn, nhưng chỉ xếp thứ 2 tại Ligue 1 và mất chức vô địch vào tay Lille.

Sân vận động

Từ năm 1904 đến năm 1937, Marseille thi đấu tại sân Stade de l’Huveaune có sức chứa 15.000 do chính đội sở hữu, không giống như sân Stade Vélodrome hiện tại được cho thuê. Kể từ năm 1937, OM đã thuê Stade Vélodrome làm sân nhà, nhưng có những thời điểm đội bóng vẫn sử dụng l’Huveaune, chẳng hạn như thời Marcel Leclerc buộc chính quyền thành phố Marseille phải giảm giá thuê Vélodrome, hay khi Vélodrome sửa chữa sân vận động chuẩn bị cho vòng chung kết Euro 1984 và World Cup 1998.

Bản sửa đổi năm 1998 tạo thêm hai khán đài phía Bắc (Virage Nord) và phía Nam (Virage Sud) cùng với hai khán đài chính là Jean Bouin và Ganay, với tổng sức chứa 60 013 khán giả, thường xuyên chật kín cổ động viên trung tâm. thành viên của đội. Người hâm mộ mong chính quyền thành phố sớm nâng sức chứa cũng như phủ kín tất cả các khán đài.

Trước mỗi trận đấu tại Vélodrome, người ta thường nghe thấy bài hát Jump của ban nhạc rock Van Halen, và khi OM ghi bàn người hâm mộ hay hát Come with Me của Puff Daddy.

Hiện tại, để chuẩn bị cho Euro 2016, một dự án nâng cấp sân vận động Velodrome đã được thông qua, theo đó toàn bộ khán đài sẽ được lợp mái che và sức chứa lên đến 65000 đến 70000 người.

Các kỷ lục

  • Đội tuyển Pháp duy nhất từng vô địch Champions League / Cúp C1 châu Âu: 1993
  • Để lọt lưới ít nhất trong một mùa giải: 21 bàn thua (mùa giải 1991-1992).
  • Số trận thắng trên sân khách nhiều nhất trong một mùa giải: 12 (mùa 1971-1972). (cùng kỷ lục với Saint-Etienne và Lyon).
  • Ghi nhiều bàn nhất trong một mùa giải: Josip Skoblar, 44 bàn, đoạt Chiếc giày vàng châu Âu 1970-1971.

Danh hiệu

Danh hiệu quốc tế

  • UEFA Champions League/Cúp C1

Vô địch (1): 1993

  • UEFA Cup

Á quân (3): 1999, 2004, 2018

  • Cúp Intertoto:

Vô địch (1): 2005

Danh hiệu trong nước

  • Division 1/Ligue 1

Vô địch (9): 1937, 1948, 1971, 1972, 1989, 1990, 1991, 1992, 2010

  • Division 2

Vô địch (1): 1995

  • Cúp bóng đá Pháp

Vô địch (10): 1924, 1926, 1927, 1935, 1938, 1943, 1969, 1972, 1976, 1989

  • Cúp Liên đoàn bóng đá Pháp

Vô địch (3): 2010, 2011, 2012

  • Challenge des champions

Vô địch (3): 1971, 2010, 2011

  • Coupe Charles Drago

Vô địch (1): 1957

  • Championnat de France Amateurs

Vô địch (1): 1929

Đội hình hiện tại

Số VT Cầu thủ
1 TM Simon Ngapandouetnbu
4 HV Samuel Gigot
5 HV Leonardo Balerdi
6 TV Matteo Guendouzi
7 HV Jonathan Clauss
8 TV Gerson
9 Arkadiusz Milik
10 Dimitri Payet (đội trưởng)
11 Luis Suárez
12 Bamba Dieng
13 Cédric Bakambu
15 HV Duje Ćaleta-Car
16 TM Pau López
17 Cengiz Ünder
 
Số VT Cầu thủ
18 HV Isaak Touré
19 HV Jordan Amavi
20 Konrad de la Fuente
21 TV Valentin Rongier
22 TV Pape Gueye
23 HV Sead Kolašinac
27 TV Jordan Veretout
29 HV Pol Lirola
30 HV Nuno Tavares (mượn từ Arsenal)
36 TM Rubén Blanco (mượn từ Celta Vigo)
70 Alexis Sánchez
99 HV Chancel Mbemba
TV Kevin Strootman

Ghi chú

  • “Điểm danh 2007/08”. ligue1.com. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2009.
  • (bằng tiếng Pháp) “L’histoire de l’Olympique de Marseille”. om4ever.com. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
  • (bằng tiếng Pháp) “L’Olympique de Marseille”. Tạp chí bóng đá (23). Tháng 12 năm 1961. tr. thứ mười hai.
  • (bằng tiếng Pháp) Pécheral, Alain (2007). L’Équipe (chủ biên). La grande histoire de l’OM (Des origines à nos jours). P. P. 10-11. ISBN 2916400079.
  • (bằng tiếng Pháp) Collectif. L’Équipe (chủ biên). Olympique de Marseille – Un club à la une. P. P. 7. ISBN 2915535019. Đã bỏ qua thông số không xác định | yêa = (trợ giúp)
  • (bằng tiếng Anh) Frédéric Pauron (ngày 24 tháng 4 năm 2004). “Pháp 1892-1919”. rsssf.com. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
  • (bằng tiếng Pháp) “La Saison 1922-1923, l’OM recrute des vedettes”. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008. Tham số không xác định | nguồn = bị bỏ qua (trợ giúp)
  • (bằng tiếng Pháp) “Finale du Championnat de France 1929 OM Club Français 3 à 2”. om4ever.com. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
  • “Lịch sử của L’OM”. Trang web chính thức của OM. Ngày 8 tháng 4 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2007.
  • “La Saison 1931/1932, l’OM Champion du Sud-Est adhère au craftnalisme”. om4ever.com. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
  • (Tiếng Anh) “Pháp – Bảng xếp hạng và kết quả giải hạng nhất 1932-1998”. rsssf.com. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
  • “Première journée du Championnat de France 1932-1933”. lfp.fr. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
  • (bằng tiếng Pháp) Collectif (2007). L’Équipe (chủ biên). Coupe de France: la folle epopée. P. P. 350. ISBN 2915535620.
  • (bằng tiếng Pháp) Collectif (1982). Tập bản đồ (chủ biên). 100 ans de football en France. P. P. 131-132. ISBN 2731201088.
  • (bằng tiếng Pháp) Collectif (2007). L’Équipe (chủ biên). Coupe de France: la folle epopée. P. P. 431. ISBN 2915535620.
  • Bóng đá Pháp, N ° 2936 bis, PP 28-29 La nuit des longs couteaux à l’OM
  • “Kachkar, Bây giờ đã kết thúc”. RTL. Ngày 29 tháng 3 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2007.
  • Marseille 0-4 Liverpool BBC Sport – ngày 11 tháng 12 năm 2007
  • Trước năm 2002, giải vô địch bóng đá Pháp được gọi là Division 1.
  • Chiếc cúp này được biết đến với cái tên Challenge des Champions cho đến năm 1995 và Trophée des Champions kể từ đó.
  • Olympic de Marseille. “Chương trình nghề trang bị từ năm 2021–2022”. OM.net. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2019.

Wikipedia

Hình ảnh Marseille

Video giới thiệu Marseille

Kết luận

Sau chức vô địch Cúp C1 này không lâu, OM bị phát hiện dính vào vụ bán độ đầy tai tiếng với đội bóng Valenciennes trong cùng mùa giải 1992-1993, kết quả là dù vô địch Pháp năm đó Marseille vẫn bị tước danh hiệu đồng thời bị phạt rớt xuống hạng nhì.